Ngày 14 tháng 4 năm 1943

☀ Thứ Tư
14
🌙 Tháng Ba
10
Năm Quý Mùi
Tiết Thanh Minh
Giờ Canh Tí
Ngày Nhâm Dần
Tháng Bính Thìn
Giờ hoàng đạo: Tí (23-1), Sửu (1-3), Thìn (7-9), Tỵ (9-11), Mùi (13-15), Tuất (19-21)
Ngày Lễ Tình yêu đen (Valentine đen)
Ngày Giỗ tổ Hùng Vương
Ngày
tháng
năm

Ngày Lễ Tình yêu đen (Valentine đen)

Valentine đen (hay còn gọi là Black Valentine) là ngày dành riêng cho những người vẫn đang tìm kiếm một nửa hoàn hảo phù hợp với mình. Nói theo ngôn ngữ của giới trẻ hiện đại thì Valentine đen dành riêng cho hội những người “ế”. Ngày Valentine đen là ngày 14/4 hằng năm.

Nguồn gốc ngày lễ tình nhân Valentine đen

Valentine đen là ngày dành cho những bạn trẻ đang độc thân, họ tụ hội lại để cùng nhau tổ chức các bữa tiệc với mục đích “tự thưởng” cho bản thân và đồng thời tạo cơ hội cho chính mình. Ngày Valentine đen có nguồn gốc từ đất nước xinh đẹp Hàn Quốc nổi tiếng với món kim chi. Trong ngày này, những người cô đơn của “xứ sở kim chi” lại tụ tập, dành thời gian chia sẻ, tâm sự với nhau về chuyện tình cảm không như ý của bản thân. Ngoài ra, họ cũng mặc những trang phục màu đen rồi cùng nhau ngồi ăn mì Jajang (mì tương đen) như một nghi thức quan trọng. Đây là cách mà họ tổ chức ngày Valentine đen khi mà nó mới xuất hiện.

Tuy nhiên, khi ngày Valentine đen được biết đến và được chấp nhận rộng rãi trong giới trẻ thì ngày càng có nhiều cách để họ kỷ niệm ngày quan trọng của người độc thân này.

Ý nghĩa của ngày Valentine đen

Với những người đang độc thân, Valentine đen sinh ra và tồn tại như cách để an ủi, tri ân họ. Cùng với ngày 11.11 (ngày độc thân bắt nguồn từ Trung Quốc), hai ngày này đã trở thành “cột mốc” để những người cô đơn tôn thờ. Trong những ngày Valentine đỏ, trắng, việc người cô đơn phải chứng kiến các cặp đôi thể hiện tình cảm với nhau chắc hẳn sẽ khiến có rất nhiều hụt hẫng, không vui. Bởi chẳng có ai lại không muốn có một người hiểu mình, yêu mình ở bên cạnh để sẻ chia mọi thứ. Valentine là một trong những ngày được sinh ra để dành cho họ, nó mang một ý nghĩa rất lớn.

Vào ngày này những người độc thân sẽ tận hưởng cuộc sống theo cách mà họ thích. Có người sẽ tự thưởng cho mình một bữa ăn sang trọng, đi xem phim một mình hoặc thậm chí xách balo lên và phượt đến một nơi xa nào đó. Có người đơn giản hơn, họ sẽ dành riêng cho mình một ngày để nghỉ ngơi, đọc sách, muốn có một không gian riêng tư và tự thưởng cho mình những món quà để an ủi bản thân. Đây không chỉ là thời gian để họ nghỉ ngơi mà còn là cơ hội để suy ngẫm về bản thân và tìm kiếm những điều mới mẻ trong cuộc sống.

Ngày Valentine đen, người cô đơn sẽ cảm nhận được một cuộc sống hạnh phúc và trân quý những thứ hiện tại mình đang có. Bạn sẽ chẳng phải dành thời gian để đi chơi cùng người yêu, chẳng cần chịu đựng sự ích kỷ, tật xấu của đối phương và thậm chí sẽ chẳng phải lo lắng người ấy có đang giận mình hay không. Điều này khiến cuộc sống của bạn trở nên đơn giản và hạnh phúc hơn rất nhiều. Đặc biệt, bạn cũng có thể tự hào mà nói to trong ngày Valentine đen rằng: “Tôi độc thân, tôi hạnh phúc”.

Ngày Giỗ tổ Hùng Vương

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hoặc Lễ hội Đền Hùng hoặc Quốc giỗ là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của Người Việt tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mùng 10 tháng 3 Âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và được người dân Việt Nam trên toàn thế giới kỷ niệm và tôn kính. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể.

Lịch sử

Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ thời nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê các vua và nhân dân địa phương đều đến lễ bái các vua Hùng. Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, tổ chức ngày giỗ Hùng Vương thứ 18 vào ngày 11 tháng 3 âm lịch; đổi lại dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản thuế ruộng cùng sưu dịch và sung vào lính.

Sang thế kỷ 20, năm 1917 triều vua Khải Định, Bộ Lễ chính thức gửi công văn ghi ngày 25 tháng 7 phái quan hàng tỉnh của tỉnh Phú Thọ lấy ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch thì cử hành "quốc tế" hàng năm, tức là sức cho các quan phải mặc phẩm phục lên đền Hùng thay mặt triều đình Huế cúng tế.

Bia Hùng Vương từ khảo tại đền Thượng do Tham tri, Hữu tuần phủ Phú Thọ là Bùi Ngọc Hoàn soạn, cho biết: “Năm Khải Định thứ hai, tức năm 1917 lịch dương, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin Bộ Lễ ấn định lấy ngày mồng 10 tháng 3 hàng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ Hùng Vương thứ 18 một ngày, ngày 11 tháng 3, do dân sở tại cúng tế”. Đây cũng là cứ liệu xác tín nhất để xác định rõ ràng ngày lễ chính thức Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng Ba âm lịch chỉ được ban hành từ hoàng triều Khải Định.

Ngày 10 tháng Ba từ đó được dùng cho toàn quốc. Sau khi nền cộng hòa thành lập, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh, xem ngày 10 tháng Ba là một trong những ngày lễ chính thức của quốc gia, các công chức được nghỉ lễ có hưởng lương. Trong lễ Giỗ Tổ năm Bính Tuất (ngày 11 tháng 4 năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ giỗ Tổ Hùng Vương tại Việt Nam học xá (nay là khu vực Trường Đại học bách khoa Hà Nội). Cũng trong ngày này, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng thay mặt Chính phủ lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng, đã dâng 1 tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm tế cáo với Tổ tiên về đất nước đang bị Pháp xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Quốc gia Việt Nam Cộng hòa tại Miền Nam Việt Nam cũng đã ghi nhận ngày 10 tháng Ba là ngày nghỉ lễ chính thức cho đến năm 1975.

Từ năm 2001, ngày giỗ tổ Hùng Vương trở thành quốc giỗ nước Việt Nam sau thời kỳ Đổi mới dù nét văn hóa và tín ngưỡng này không sâu đậm và phổ biến tại Nam Việt Nam.Từ năm 2007, ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. Lễ hội đền Hùng những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức. Các năm chẵn sẽ có quy mô ở các cấp trung ương. Lễ hội đền Hùng không chỉ diễn ra ở khu di tích lịch sử đền Hùng Phú Thọ mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng.v.v.

UNESCO đã công nhận "Tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng" là "kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại" vào ngày 6 tháng 12 năm 2012.

Hoạt động lễ hội

Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng.

Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội tại đền Hùng:

Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu, nhiều màu sắc của rất nhiều cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương.

Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Theo quan niệm của người Việt, mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.

Phần hội có nhiều trò chơi dân gian. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.